CHUYÊN MỤC

Bộ Thủ tục hành chính công
Cơ cấu tổ chức
Hỏi đáp - Góp ý
Quy hoạch - Kế hoạch
Phổ biến pháp luật
Thủ tục hành chính mức độ 2
TRACUU.png

HOP-THU-DIEN-TU1-(1).jpg

HOP-THU-DIEN-TU1-(1).jpg

HOP-THU-DIEN-TU1-(1).jpg

HOP-THU-DIEN-TU1-(1).jpg
 

GIỚI THIỆU LUẬT TÀI NGUYÊN NƯỚC NĂM 2012

Ngày đăng bài: 11/01/2018

Ngày 21 tháng 6 năm 2012, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua Luật tài nguyên nước. Ngày 02 tháng 7 năm 2012, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Lệnh công bố Luật tài nguyên nước và luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2013, thay thế Luật tài nguyên nước số 08/1998/QH10. Luật tài nguyên nước được ban hành đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong công tác quản lý tài nguyên nước ở nước ta. Đây là văn bản pháp luật cao nhất về quản lý tài nguyên nước, trong đó các quan điểm, đường lối của Đảng, chiến lược phát triển đất nước có liên quan đến tài nguyên nước đã được thể chế hoá; bước đầu tiếp cận quan điểm hiện đại của thế giới về quản lý tổng hợp tài nguyên nước.

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT TÀI NGUYÊN NƯỚC NĂM 2012
Đất nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhu cầu sử dụng nước cho phát triển kinh tế, phục vụ dân sinh ngày càng lớn trong khi nguồn nước có hạn, đặt ra yêu cầu mới về chia sẻ nguồn nước. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu sử dụng nước phù hợp. Ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước diễn ra phổ biến và nghiêm trọng, đang là thách thức lớn trong công tác bảo vệ tài nguyên nước. Mặt khác, biến đổi khí hậu đang gây ra nhiều mối đe dọa đến tài nguyên nước. Trước tình hình đó, cần phải tăng cường công tác quản lý tài nguyên nước, mà việc quan trọng trước tiên là hoàn thiện pháp luật về tài nguyên nước.
Sau mười hai năm thi hành Luật, nhiều quy định của Luật đã được triển khai trên thực tế và đạt nhiều kết quả khả quan, đặc biệt là đã khai thác, sử dụng tốt hơn các nguồn nước để đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước có nhiều tiến bộ và từng bước đi vào nề nếp, nhất là từ sau khi thành lập Bộ Tài nguyên và Môi trường: hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã được bổ sung, hoàn thiện thêm một bước để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý và đòi hỏi từ thực tiễn; công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực tài nguyên nước được tăng cường hơn trước; công tác cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước và hành nghề khoan nước dưới đất cũng được triển khai đồng bộ ở cả trung ương và địa phương, v.v...
Tuy nhiên, thực tế thi hành Luật tài nguyên nước năm 1998 trong thời gian qua cho thấy còn một số tồn tại, bất cập, cụ thể là:
- Các quy định về khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra liên quan trực tiếp đến quy định của nhiều văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực khác như: Đầu tư, Bảo vệ môi trường, Đất đai, Khoáng sản, Thuế tài nguyên, v.v... Trong khi các văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực này đã được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới thì các quy định có liên quan của pháp luật về tài nguyên nước vẫn chưa được điều chỉnh, bổ sung để đồng bộ;
- Nhiều quy định của Luật tài nguyên nước năm 1998 đã không còn phù hợp với thực tế, gây khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện; một số quan hệ mới trong khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra phát sinh trong thực tiễn cần được bổ sung vào nội dung của Luật; nhiều quy định đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn thi hành, nhưng mới chỉ được thể hiện trong các văn bản dưới luật nên tính pháp lý còn thấp;
- Các quy định về cấp phép tài nguyên nước (về điều kiện cấp giấy phép, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép về tài nguyên nước) chưa chặt chẽ;
- Luật chưa quy định đầy đủ, toàn diện một số nội dung rất quan trọng của quản lý tài nguyên nước, như: quy hoạch tài nguyên nước; quản lý lưu vực sông; điều hoà, phân bổ nguồn nước một cách hợp lý, cân bằng lợi ích kinh tế - xã hội - môi trường; sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả; duy trì dòng chảy tối thiểu trên sông, ngưỡng giới hạn khai thác nước dưới đất. Luật cũng chưa điều chỉnh đầy đủ hoặc rõ các vật thể chứa nước, các công trình điều tiết nước và nguyên tắc vận hành các công trình đó;
- Tài nguyên nước là tài sản quốc gia, là tài nguyên đặc biệt quan trọng, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội bền vững và bảo vệ môi trường nhưng chưa có biện pháp, cơ chế quản lý phù hợp, chưa thực sự coi tài nguyên nước là một loại tài sản; thiếu các quy định, công cụ, biện pháp kinh tế, tài chính để tăng cường trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong hoạt động khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước nên tình trạng khai thác, sử dụng còn lãng phí, thiếu hiệu quả và không bền vững còn phổ biến;
- Trong những năm gần đây, nhận thức về tầm quan trọng của tài nguyên nước đối với phát triển bền vững có sự chuyển biến rõ rệt so với trước. Theo đó, đã đặt ra yêu cầu phải quản lý bền vững và hiệu quả hơn các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; quản lý tài nguyên nước bước đầu đã theo phương thức tổng hợp, sử dụng đa mục tiêu và phải gắn với các tài nguyên thiên nhiên khác. Phương thức quản lý tổng hợp tài nguyên nước đã được áp dụng thành công ở một số nước trên thế giới và ngày càng chứng tỏ là một phương thức quản lý hiệu quả, được nhiều quốc gia nghiên cứu áp dụng. Ở nước ta, Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020 cũng đã đề cập đến quản lý tổng hợp tài nguyên nước, tuy nhiên, Luật tài nguyên nước hiện hành chưa thể hiện đầy đủ và đúng mức phương thức quản lý này.
Thực hiện Nghị quyết số 48/2010/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2010 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010 và bổ sung Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII, Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì xây dựng Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Ngày 21 tháng 6 năm 2012, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật tài nguyên nước. Luật đã tập trung xử lý các tồn tại nêu trên, thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng, chiến lược phát triển đất nước có liên quan đến tài nguyên nước và thể hiện quan điểm hiện đại của thế giới về quản lý tổng hợp tài nguyên nước.
Trong bối cảnh 2/3 lượng nước của nước ta là từ nước ngoài chảy vào, các quốc gia thượng nguồn đang tăng cường hoạt động khai thác, sử dụng nước, biến đổi khí hậu, nước biển dâng,...cùng với việc sử dụng nước lãng phí, kém hiệu quả, công tác bảo vệ các nguồn nước chưa đáp ứng yêu cầu dẫn đến tình trạng khan hiếm nước, thiếu nước, ô nhiễm nguồn nước ngày càng gia tăng, đồng thời là nguy cơ lớn trong việc bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia, thì việc sửa đổi, bổ sung toàn diện và ban hành Luật tài nguyên nước để khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về tài nguyên nước, bảo vệ vững bền nguồn nước quốc gia, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả và phòng, chống tác hại do nước gây ra được tốt hơn có ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết.
 
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT VÀ CÁC CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH LỚN ĐƯỢC THỂ CHẾ HÓA TRONG LUẬT
Luật Tài nguyên nước được xây dựng trên cơ sở quán triệt sâu sắc, thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, chủ trương, chính sách sau đây của Đảng và Nhà nước ta:
1. Về quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật
1- Tài nguyên nước thuộc sở hữu toàn dân, là tài sản của Nhà nước và là tài nguyên đặc biệt quan trọng, tư liệu thiết yếu cho cuộc sống của con người, phải được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài.
2- Khai thác, sử dụng tài nguyên nước phải đi đôi với bảo vệ tài nguyên nước, bảo vệ môi trường và các tài nguyên thiên nhiên khác, đồng thời phải gắn kết chặt chẽ với việc phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra.
3- Phải giải quyết cơ bản các vấn đề bức xúc, nổi cộm; xem xét bổ sung quy định những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn; những vấn đề đã có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn thì phải quy định chi tiết ngay trong nội dung của Luật.
4- Kế thừa các quy định của Luật tài nguyên nước năm 1998 đang phát huy tác dụng trên thực tế; bãi bỏ các quy định bất cập; sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành cho phù hợp với thực tiễn; luật hoá một số quy định trong các văn bản dưới luật nhằm tăng giá trị pháp lý của các quy định này.
5- Tiếp cận đầy đủ quan điểm phát triển bền vững tài nguyên nước theo tinh thần Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển họp tại Rio de Janeiro năm 1992 và bốn nguyên tắc về nước và phát triển bền vững được Hội nghị quốc tế Dublin năm 1992 thông qua.
6- Bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, đồng bộ với các luật chuyên ngành có liên quan và phù hợp với các điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực tài nguyên nước mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; rõ ràng, dễ hiểu và mang tính khả thi cao, góp phần thúc đẩy đầu tư đi đôi với tăng cường bảo vệ, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước, gắn với yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước.
2. Các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đã được thế hóa trong Luật
1- Nhà nước là đại diện chủ sở hữu toàn dân về tài nguyên nước, vì vậy, các quy định của Luật phải thể hiện rõ các quyền năng của chủ sở hữu, đồng thời Nhà nước bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn đầu tư, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của tổ chức, cá nhân tham gia khai thác, sử dụng tài nguyên nước.
2- Khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và bảo vệ có hiệu quả tài nguyên nước. Tài nguyên nước có thể tái tạo nhưng hữu hạn, nhất thiết phải được khai thác có hiệu quả và sử dụng tiết kiệm, tổng hợp, đa mục tiêu. Đồng thời, phải có các biện pháp chủ động phòng, chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước hiệu quả để bảo vệ, gìn giữ tài nguyên nước, bảo đảm khai thác bền vững, lâu dài.
3- Khuyến khích, ưu đãi các tổ chức, cá nhân nghiên cứu và áp dụng khoa học, công nghệ, đầu tư công trình, thực hiện các biện pháp khai thác, sử dụng nước tổng hợp, đa mục tiêu, tiết kiệm và hiệu quả.
4- Xã hội hóa các hoạt động bảo vệ, phát triển nguồn nước và cung ứng dịch vụ nước; khuyến khích và huy động sự đóng góp tài chính của mọi thành phần kinh tế, cộng đồng dân cư trong bảo vệ tài nguyên nước và phòng, chống tác hại do nước gây ra.
5- Ưu tiên nguồn vốn đầu tư công tác quản lý, bảo vệ hiệu quả tài nguyên nước thông qua các hoạt động điều tra cơ bản về tài nguyên nước, xây dựng hệ thống quan trắc, giám sát, cảnh báo, dự báo về tài nguyên nước, hệ thống thông tin dữ liệu; xây dựng và thực hiện quy hoạch tài nguyên nước, kế hoạch phòng, chống ô nhiễm, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra và kế hoạch điều hòa, phân phối nguồn nước.
6- Tăng cường áp dụng các công cụ, biện pháp kinh tế, tài chính trong quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước nhằm đề cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong bảo vệ tài nguyên nước, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn nước và bảo đảm công bằng trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước.
 
III. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CỦA LUẬT TÀI NGUYÊN NƯỚC
1. Bố cục của Luật

Luật tài nguyên nước gồm 10 chương với 79 điều, quy định việc quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luật không điều chỉnh đối với nước khoáng, nước nóng thiên nhiên và nước biển thuộc vùng thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bên cạnh đó, những vấn đề về lũ, lụt và các tác hại khác của nước do thiên tai gây ra được điều chỉnh bằng pháp luật khác.
Cụ thể các chương của Luật như sau:
Chương I. Những quy định chung
Chương II. Điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước
Chương III. Bảo vệ tài nguyên nước
Chương IV. Khai thác, sử dụng tài nguyên nước
Chương V. Phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra
Chương VI. Tài chính về tài nguyên nước
Chương VII. Quan hệ quốc tế về tài nguyên nước
Chương VIII. Trách nhiệm quản lý tài nguyên nước
Chương IX. Thanh tra chuyên ngành tài nguyên nước, giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước
Chương X. Điều khoản thi hành
2. Nội dung chính của Luật
- Chương I. Những quy định chung: gồm 9 điều  (từ Điều 1 đến Điều 9)
Nội dung chương này quy định về: phạm vi điều chỉnh của Luật; giải thích từ ngữ; nguyên tắc quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước,  phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; chính sách của Nhà nước về tài nguyên nước; phổ biến, giáo dục về tài nguyên nước; lấy ý kiến của cộng đồng dân cư và các tổ chức, cá nhân liên quan trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước; danh mục lưu vực sông, danh mục nguồn nước;lưu trữ, sử dụng thông tin về tài nguyên nước và các hành vi bị nghiêm cấm.
- Chương II. Điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước: gồm 2 mục, 15 điều  (từ Điều 10 đến Điều 24)
Mục 1. Điều tra cơ bản tài nguyên nước, gồm 4 điều quy định về: trách nhiệm của Nhà nước trong điều tra cơ bản tài nguyên nước; quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước; các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên nước và tổ chức thực hiện điều tra cơ bản tài nguyên nước.
Mục 2. Chiến lược, quy hoạch tài ngưyên nước, gồm 11 điều quy định về: chiến lược tài nguyên nước; các loại quy hoạch tài nguyên nước; nguyên tắc, căn cứ lập quy hoạch tài nguyên nước; nội dung của quy hoạch tài nguyên nước chung của cả nước, quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông liên tỉnh và quy hoạch tài nguyên nước của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; nhiệm vụ quy hoạch tài nguyên nước; lập, phê duyệt, điều chỉnh quy hoạch tài nguyên nước; công bố, tổ chức thực hiện quy hoạch tài nguyên nước và quy định điều kiện của đơn vị tư vấn lập quy hoạch tài nguyên nước.
- Chương III. Bảo vệ tài nguyên nước: gồm 14 điều (từ Điều 25 đến Điều 38)
Nội dung của Chương này quy định về: trách nhiệm bảo vệ tài nguyên nước; phòng, chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước; ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước và phục hồi nguồn nước bị ô nhiễm, cạn kiệt; quan trắc, giám sát tài nguyên nước; bảo vệ và phát triển nguồn sinh thủy; bảo đảm sự lưu thông của dòng chảy; hành lang bảo vệ nguồn nước; bảo vệ chất lượng nguồn nước sinh hoạt; bảo vệ chất lượng nguồn nước trong sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, sản xuất công nghiệp, khai thác khoáng sản và các hoạt động khác; phòng, chống ô nhiễm nước biển; bảo vệ nước dưới đất; hành nghề khoan nước dưới đất; xả nước thải vào nguồn nước; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước.
- Chương IV. Khai thác, sử dụng tài nguyên nước: gồm 3 mục, 19 điều (từ Điều 39 đến Điều 57)
Mục 1. Sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả: gồm 4 điều quy định về các biện pháp sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả; hạn chế thất thoát nước trong các hệ thống cấp nước; ưu đãi đối với hoạt động sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả; phát triển khoa học, công nghệ sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả.
Mục 2. Khai thác, sử dụng tài nguyên nước: gồm 11 điều quy định về quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước; đăng ký, cấp phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước; khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho sinh hoạt và khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho sản xuất nông nghiệp, thủy điện, sản xuất muối và nuôi trồng thủy sản, sản xuất công nghiệp, khai thác, chế biến khoáng sản, giao thông thủy và các mục đích khác; thăm dò, khai thác nước dưới đất và quy định về hồ chứa, khai thác, sử dụng nước hồ chứa.
Mục 3. Điều hoà, phân phối tài nguyên nước: gồm 4 điều quy định về điều hòa, phân phối tài nguyên nước; chuyển nước lưu vực sông; bổ sung nhân tạo nước dưới đất và gây mưa nhân tạo.
- Chương V. Phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra: gồm 6 điều (từ Điều 58 đến Điều 63)
Nội dung Chương này quy định về: trách nhiệm, nghĩa vụ phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại của nước do thiên tai gây ra; phòng, chống hạn hán, lũ, lụt, ngập úng nhân tạo; phòng, chống xâm nhập mặn; phòng, chống sụt, lún đất; phòng, chống sạt, lở bờ, bãi sông.     
- Chương VI. Tài chính về tài nguyên nước: gồm 2 điều (Điều 64 và Điều 65)
Chương này quy định về: nguồn thu ngân sách nhà nước từ hoạt động tài nguyên nước; tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước nhằm tạo nguồn thu từ tài nguyên nước, bảo đảm công bằng trong khai thác, sử dụng và nâng cao ý thức của tổ chức, cá nhân.
- Chương VII. Quan hệ quốc tế về tài nguyên nước: gồm 4 điều (Điều 66 đến Điều 69)
Chương này quy định các nội dung về: nguyên tắc áp dụng trong quan hệ quốc tế về tài nguyên nước; trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích của Việt Nam đối với nguồn nước liên quốc gia; hợp tác quốc tế trong quản lý và phát triển tài nguyên nước; giải quyết tranh chấp, bất đồng về nguồn nước liên quốc gia.
- Chương VIII. Trách nhiệm quản lý tài nguyên nước: gồm 5 điều (từ Điều 70 đến Điều 74)
Nội dung tại Chương này bao gồm: trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước của Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ; trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước của Ủy ban nhân dân các cấp; điều phối, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra trên lưu vực sông; thẩm quyền cấp, gia hạn, điều chỉnh, đình chỉ, thu hồi giấy phép về tài nguyên nước; Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước.
- Chương IX. Thanh tra chuyên ngành tài nguyên nước, giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước: gồm 2 điều (Điều 75 và Điều 76)
Chương này quy định về: thanh tra chuyên ngành tài nguyên nước; giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước.
- Chương X. Điều khoản thi hành: gồm 3 điều (từ Điều 77 đến Điều 79)
Chương này quy định về chuyển tiếp đối với giấy phép tài nguyên nước đã được cấp và việc thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước; hiệu lực thi hành của Luật từ 1/1/2013 và việc quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật.
3. Những điểm mới của Luật tài nguyên nước năm 2012
Luật tài nguyên nước lần này đã bổ sung 39 điều mới hoàn toàn về nội dung và sửa đổi, bổ sung 40 điều của Luật tài nguyên nước năm 1998. Những nội dung mới của Luật được thể hiện ở những chương sau đây:
3.1. Những quy định chung (Chương I)
Điểm mới trong Luật là bổ quy định để làm rõ tài nguyên nước không chỉ có nước mà còn bao gồm cả sông, suối, hồ chứa,...để tránh bỏ sót đối tượng quản lý; quy định một số dự án liên quan đến khai thác nước, xả nước thải vào nguồn nước phải lấy ý kiến của cộng đồng dân cư bị ảnh hưởng của dự án và tổ chức, cá nhân liên quan nhằm đề cao trách nhiệm, minh bạch thông tin về những tác động tiêu cực có thể gây ra ngay từ khi chuẩn bị thực hiện dự án; bổ sung quy định phân loại lưu vực sông, nguồn nước làm căn cứ phân công, phân cấp quản lý và bổ sung quy định về phổ biến, giáo dục pháp luật. Cụ thể như sau
- Đã bổ sung và chỉnh sửa một số giải thích từ ngữ tại Điều 2 nhằm thống nhất trong việc thi hành Luật như: "nguồn nước liên tỉnh", "nguồn nước nội tỉnh", “nguồn nước liên quốc gia”, "lưu vực sông liên tỉnh", "lưu vực sông nội tỉnh" để phân biệt rõ các lưu vực sông và các nguồn nước trong từng lưu vực sông; giải thích tách biệt hai thuật ngữ "suy thoái nguồn nước", "cạn kiệt nguồn nước" để phân biệt sự suy giảm về chất lượng nước với sự suy giảm về số lượng nước, bổ sung các thuật ngữ: “dòng chảy tối thiểu ”, “ngưỡng khai thác nước dưới đất”, “chức năng của nguồn nước” v.v...
- Các nguyên tắc quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra tại Điều 3 được bổ sung và chỉnh sửa rõ ràng hơn, trong đó kế thừa quy định việc quản lý tài nguyên nước phải bảo đảm thống nhất theo lưu vực sông, tài nguyên nước phải được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả; bảo đảm nước cho sinh hoạt của nhân dân, phục vụ sự phát triển bền vững của đất nước. Luật bổ sung quy định việc quản lý tài nguyên nước phải theo nguồn nước, kết hợp với quản lý theo địa bàn hành chính; quản lý tổng hợp, thống nhất về số lượng và chất lượng nước; giữa nước mặt và nước dưới đất; nước trên đất liên và nước vùng cửa sông, nội thủy, lãnh hải; giữa thượng lưu và hạ lưu, kết hợp với quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác. Bổ sung các nguyên tắc về bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống tác hại do nước gây ra như: phải gắn với bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh và các tài nguyên thiên nhiên khác; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; kết hợp bảo vệ chất lượng nước và hệ sinh thái thủy sinh, khắc phục, hạn chế ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt  nguồn nước.
Đồng thời, Luật cũng bổ sung nguyên tắc các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh phải gắn với khả năng nguồn nước, với việc bảo vệ tài nguyên nước; bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu trên sông, không vượt quá ngưỡng khai thác đối với các tầng chứa nước dưới đất và phải có các biện pháp bảo đảm đời sống dân cư. Nguyên tắc bảo đảm chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia, công bằng, hợp lý, các bên cùng có lợi trong bảo vệ, khai thác, sử dụng, phát triển tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra đối với các nguồn nước liên quốc gia cùng là điểm mới trong Luật.
- Chính sách của Nhà nước về tài nguyên nước có nhiều điểm mới nhằm thực hiện chủ trương kinh tế hóa lĩnh vực tài nguyên nước, khai thác, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả. Nhà nước đầu tư và có cơ chế khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến để quản lý, bảo vệ, phát triển các nguồn nước, xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật để tái sử dụng, xử lý nước mặn, nước lợ thành nước ngọt, thu gom, sử dụng nước mưa, bổ sung nhân tạo nước dưới đất, khôi phục nguồn nước bị ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt. Nhà nước bảo đảm ngân sách cho điều tra cơ bản, quy hoạch tài nguyên nước, bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra.
- Luật bổ sung quy định các dự án có xây dựng công trình khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước phải lấy ý kiến của cộng đồng dân cư bị ảnh hưởng và tổ chức, cá nhân liên quan nhằm đề cao trách nhiệm, minh bạch thông tin về những tác động tiêu cực có thể gây ra ngay từ khi chuẩn bị thực hiện dự án.
Đối với các dự án đầu tư có chuyển nước trong phạm vi lưu vực sông nội tỉnh thì ngoài việc lấy ý kiến của cộng đồng dân cư và tổ chức, cá nhân liên quan trên địa bàn, tổ chức, cá nhân đầu tư dự án còn phải lấy ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện có liên quan, tổ chức lưu vực sông về quy mô, phương án chuyển nước trước khi lập dự án đầu tư; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có liên quan và tổ chức lưu vực sông đối với dự án có chuyển nước khác.
Đối với các dự án đầu tư xây dựng hồ, đập trên sông thuộc lưu vực sông liên tỉnh mà không có chuyển nước thì ngoài việc lấy ý kiến của cộng đồng dân cư và tổ chức, cá nhân liên quan trên địa bàn, trước khi lập dự án đầu tư, tổ chức, cá nhân đầu tư dự án còn có trách nhiệm:
+ Lấy ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có liên quan và tổ chức lưu vực sông về quy mô, phương án đề xuất xây dựng công trình trên dòng chính;
+ Thông báo trước với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có liên quan và tổ chức lưu vực sông về quy mô, phương án đề xuất xây dựng công trình trên dòng nhánh.
Chính phủ sẽ quy định cụ thể việc lấy ý kiến và việc công khai thông tin đối với các trường hợp nêu trên.
- Luật bổ sung quy định về phổ biến, giáo dục pháp luật về tài nguyên nước, trách nhiệm của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong việc vận động nhân dân tham gia bảo vệ tài nguyên nước, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, chấp hành các quy định của pháp luật và giám sát việc bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra.
- Lưu trữ, sử dụng thông tin về tài nguyên nước được bổ sung mới, yêu cầu cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên nước có trách nhiệm cung cấp thông tin về tài nguyên nước cho tổ chức, cá nhân khi có yêu cầu theo quy định của pháp luật.
Tổ chức, cá nhân sử dụng thông tin về tài nguyên nước phải trả phí sử dụng thông tin theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí.
- Quy định danh mục lưu vực sông, danh mục nguồn nước làm căn cứ để thực hiện các nội dung quản lý tài nguyên nước theo lưu vực sông, nguồn nước.
- Các hành vi bị nghiêm cấm được quy định rõ ràng, cụ thể hơn. Theo đó, Luật đã bổ sung nhiều hành vi như: đổ chất thải, rác thải, đổ hoặc làm rò rỉ các chất độc hại vào nguồn; xả nước thải, đưa các chất thải vào vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt; xả nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật vào nguồn nước; xả khí thải độc hại trực tiếp vào nguồn nước; xả nước thải vào lòng đất thông qua các giếng khoan, giếng đào; khai thác trái phép cát, sỏi trên sông, suối, kênh, rạch, hồ chứa; khai thác khoáng sản, khoan, đào, xây dựng nhà cửa, vật kiến trúc, công trình trong hành lang bảo vệ nguồn nước gây sạt, lở bờ sông, suối, kênh, rạch, hồ chứa; thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước và hành nghề khoan nước dưới đất trái phép; không tuân thủ quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ chứa do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành...
3.2. Điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước (Chương II)
Về cơ bản, đây là những quy định mới nhằm tăng cường công tác điều tra cơ bản nhằm đáp ứng yêu cầu thông tin, dữ liệu và quản lý tài nguyên nước theo chiến lược, quy hoạch. Theo đó, Luật đã bổ sung quy định về quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước, chiến lược tài nguyên nước, quy hoạch tài nguyên nước chung của cả nước, quy hoạch lưu vực sông, quy hoạch tài nguyên nước của tỉnh, thành phố, trực thuộc trung ương. Đồng thời, Luật cũng đã bổ sung quy định trách nhiệm, thẩm quyền trong công tác điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước; quy định điều kiện của đơn vị thực hiện điều tra cơ bản, tư vấn lập quy hoạch tài nguyên nước.
- Lần đầu tiên, quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước được quy định nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quy hoạch vùng, chiến lược tài nguyên nước và làm căn cứ cho điều tra cơ bản tài nguyên nước, phục vụ lập quy hoạch tài nguyên nước.
Nội dung chính của quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước tại khoản 3 Điều 11 gồm: xác định các yêu cầu về thông tin, số liệu về tài nguyên nước, khai thác, sử dụng tài nguyên nước trên cả nước; rà soát, đánh giá kết quả thực hiện điều tra cơ bản hoặc kết quả thực hiện quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước kỳ trước; xác định các hoạt động điều tra cơ bản cần tiến hành đối với các lưu vực sông, các vùng, các nguồn nước được thực hiện điều tra cơ bản trong kỳ quy hoạch, thứ tự ưu tiên các hoạt động điều tra cơ bản ... Kỳ quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước là 10 năm, tầm nhìn 20 năm.
- Chiến lược tài nguyên nước tại Điều 14 cũng là một điều mới, trong đó nội dung chính của chiến lược phải thể hiện: quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo, tầm nhìn, mục tiêu về bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; định hướng, nhiệm vụ và giải pháp tổng thể về bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra, các đề án, dự án ưu tiên thực hiện trong từng giai đoạn trong kỳ lập chiến lược.
Chiến lược tài nguyên nước được xây dựng cho giai đoạn 10 năm, tầm nhìn 20 năm theo kỳ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chủ trì, phối hợp với các bộ liên quan và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập chiến lược trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
- Quy hoạch tài nguyên nước gồm 3 loại: Quy hoạch tài nguyên nước chung của cả nước; quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh; quy hoạch tài nguyên nước của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đối tượng của quy hoạch là nước mặt, nước dưới đất. Kỳ quy hoạch tài nguyên nước là 10 năm và tầm nhìn 20 năm.
- Nội dung của các loại quy hoạch được quy định khá rõ ràng, cụ thể, trong đó đối với quy hoạch tài nguyên nước chung của cả nước cần đánh giá tổng quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, môi trường, hiện trạng tài nguyên nước, hiện trạng khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; nhận định xu thế biến động tài nguyên nước, nhu cầu khai thác, sử dụng, xác định mục tiêu, nhiệm vụ quản lý, điều hòa, phân phối, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra, yêu cầu chuyển nước giữa các lưu vực sông, xác định các công trình điều tiết, khai thác, sử dụng nguồn nước quy mô lớn...
Đối với quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh và quy hoạch tài nguyên nước của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bao gồm một hoặc các nội dung: (1) Phân bổ nguồn nước: đánh giá số lượng, chất lượng nguồn nước, hiện trạng khai thác, sử dụng; phân vùng chức năng của nguồn nước; xác định tỷ lệ phân bổ tài nguyên nước cho các đối tượng khai thác, sử dụng, thứ tự ưu tiên và tỷ lệ phân bổ trong trường hợp hạn hán, thiếu nước, nguồn nước dự phòng để cấp nước sinh hoạt trong trường hợp xảy ra sự cố ô nhiễm nguồn nước; xác định hệ thống giám sát tài nguyên nước, giám sát khai thác, sử dụng, nhu cầu chuyển nước giữa các tiểu lưu vực trong lưu vực sông, nhu cầu chuyển nước với lưu vực sông khác...; (2) Bảo vệ tài nguyên nước: xác định yêu cầu bảo vệ tài nguyên nước và các hệ sinh thái thủy sinh, các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt; đánh giá diễn biến chất lượng nước, phân vùng chất lượng nước; xác định công trình, biện pháp phi công trình bảo vệ nguồn nước, hệ thống giám sát chất lượng nước, xả nước thải vào nguồn nước; (3) Phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra: xác định khu vực bờ sông bị sạt, lở, bị sụt, lún đất hoặc có nguy cơ bị sạt, lở, bị sụt, lún đất, xâm nhập mặn do thăm dò, khai thác nước dưới đất; đánh giá tình hình, diễn biến, xác định nguyên nhân và phân vùng tác hại do nước gây ra; đánh giá tổng quát hiệu quả, tác động của công trình, biện pháp phi công trình; xác định giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra, chất lượng và hiệu quả của hệ thống cảnh báo, dự báo; giải pháp, kinh phí, kế hoạch và tiến độ thực hiện các loại quy hoạch này. 
- Nhiệm vụ quy hoạch tài nguyên nước, lập, phê duyệt, điều chỉnh, công bố và tổ chức thực hiện quy hoạch tài nguyên nước là những điều mới được quy định trong Luật. Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện quy hoạch tài nguyên nước.
3.3. Bảo vệ tài nguyên nước (Chương III)
Điểm mới của Luật là bổ sung quy định cụ thể về các biện pháp phòng, chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước và ứng phó và khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước; quy định giám sát tài nguyên nước, các hoạt động khai thác, sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn nước, bảo vệ và phát triển nguồn sinh thủy; quy định hành lang bảo vệ nguồn nước, các biện pháp bảo vệ lòng, bờ, bãi sông, bảo đảm sự lưu thông của dòng chảy... nhằm kiểm soát chặt chẽ các hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước để bảo vệ số lượng, chất lượng của nguồn nước và bảo vệ các dòng sông.
- Trong việc phòng, chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, Luật đã có nhiều quy định mới và cụ thể hơn như: hoạt động khai thác, sử dụng nước phải tuân thủ quy hoạch tài nguyên nước; không xây dựng mới các bệnh viện, cơ sở y tế điều trị bệnh truyền nhiễm, nghĩa trang, bãi chôn lấp chất thải, cơ sở sản xuất hóa chất độc hại, cơ sở sản xuất, chế biến có nước thải nguy hại trong hành lang bảo vệ nguồn nước
Việc xây dựng các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu đô thị, khu dân cư tập trung, khu du lịch, vui chơi, giải trí tập trung, tuyến giao thông đường thủy, đường bộ, công trình ngầm, công trình cấp, thoát nước, công trình khai thác khoáng sản, nhà máy điện, khu chứa nước thải và cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ... phải có phương án phòng, chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước.
Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ra sự cố ô nhiễm nguồn nước phải xây dựng và thực hiện các biện pháp để kịp thời ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước.
- Quan trắc, giám sát tài nguyên nước cũng là một điều mới trong chương này nhằm mục đích quy định cụ thể các cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm giám sát, theo dõi các nguồn nước đang được dùng cho các mục đích sử dụng khác nhau trên địa bàn và công khai cho nhân dân biết để giám sát. Theo đó Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm quan trắc, giám sát về số lượng, chất lượng nguồn nước, hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước đối với các nguồn nước liên tỉnh, liên quốc gia. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quan trắc, giám sát đối với các nguồn nước nội tỉnh. Tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước quan trắc, giám sát việc khai thác, sử dụng nước và xả nước thải của mình theo quy định.
 - Nhận thức được tầm quan trọng ngày càng to lớn của rừng đối với việc bảo vệ tài nguyên nước, Luật đã dành một điều quy định về bảo vệ và phát triển nguồn sinh thủy. Theo đó, tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng hồ chứa, các dự án khai thác, chế biến khoáng sản và các hoạt động khác có sử dụng hoặc ảnh hưởng đến diện tích rừng phải trồng bù diện tích rừng đã bị mất do việc xây dựng công trình hoặc đóng góp kinh phí trồng rừng trong trường hợp địa phương không bố trí được quỹ đất để trồng rừng mới. Tổ chức, cá nhân quản lý, vận hành hồ chứa phải đóng góp kinh phí cho hoạt động bảo vệ rừng thuộc phạm vi lưu vực của hồ chứa và tham gia bảo vệ, phát triển rừng đầu nguồn.
- Luật quy định các nguồn nước phải lập hành lang bảo vệ, bao gồm hồ chứa thủy điện, thủy lợi; hồ tự nhiên, nhân tạo ở các đô thị, khu dân cư; hồ, ao lớn có chức năng điều hòa; đầm, đầm phá; sông, suối, kênh, rạch là nguồn cấp nước, trục tiêu nước hoặc có tầm quan trọng v.v… Đồng thời, Luật cũng quy định trách nhiệm cắm mốc chỉ giới hành lang bảo vệ nguồn nước của tổ chức quản lý, vận hành hồ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước.
- Quy định về bảo vệ chất lượng nguồn nước sinh hoạt được bổ sung, chỉnh sửa, theo đó tổ chức, cá nhân khai thác nước để cấp nước cho sinh hoạt phải thường xuyên quan trắc, theo dõi chất lượng nguồn nước sinh hoạt, bảo đảm chất lượng đối với nguồn nước do mình khai thác; đồng thời có phương án khai thác nguồn nước khác để thay thế trong trường hợp xảy ra sự cố ô nhiễm nguồn nước đang khai thác.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ xác định và công bố vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt trong phạm vi địa phương theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường; công bố thông tin chất lượng nguồn nước sinh hoạt, cảnh báo hiện tượng bất thường về chất lượng các nguồn nước trên địa bàn. Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện các biện pháp bảo vệ chất lượng nguồn nước sinh hoạt tại địa phương.
- Việc phòng, chống ô nhiễm nước biển được bổ sung mới nhằm bâo đảm tổ chức, cá nhân hoạt động trên biển phải có phương án, trang thiết bị, nhân lực để phòng ngừa, hạn chế ô nhiễm nước biển.
Trường hợp để xảy ra sự cố gây ô nhiễm nước biển phải kịp thời xử lý, khắc phục và phải thông báo ngay tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nguồn thải từ các hoạt động ở vùng ven biển, hải đảo và các hoạt động trên biển phải được kiểm soát, xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trước khi thải vào biển.
- Các quy định về bảo vệ chất lượng nguồn nước trong sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, sản xuất công nghiệp, khai thác khoáng sản và các hoạt động khác; bảo vệ nước dưới đất; xả nước thải vào nguồn nước; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước về cơ bản được kế thừa, có bổ sung về quy hoạch đô thị, khu đô thị, khu dân cư tập trung ở nông thôn, khu du lịch, khu vui chơi giải trí, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, cụm công nghiệp tập trung, làng nghề phải có hệ thống thu gom, xử lý nước thải phù hợp với quy mô xả nước thải, khả năng tiếp nhận nước thải của nguồn nước và phải được cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước có thẩm quyền chấp thuận trước khi trình phê duyệt.
Đối với dự án xây dựng, cải tạo, nâng cấp cơ sở sản xuất, kinh doanh phải có hạng mục đầu tư xây dựng hệ thống thu gom tách riêng nước mưa, nước thải; hệ thống xử lý nước thải; hệ thống tiêu, thoát, dẫn nước thải bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.
3.4. Khai thác, sử dụng tài nguyên nước (Chương IV)
Luật đã bổ sung các quy định về sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả; các quy định về quy hoạch, xây dựng và khai thác sử dụng nước của hồ chứa, điều hòa, phân phối tài nguyên nước, các biện pháp hạn chế khai thác nước dưới đất nhằm bảo đảm sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả và khai thác, sử dụng tổng hợp, hiệu quả, đa mục tiêu các nguồn nước. Đồng thời, điều chỉnh một số nội dung quy định về chuyển nước lưu vực sông, thăm dò, khai thác nước dưới đất, các quy định về khai thác, sử dụng nước cho sinh hoạt, thủy điện và các mục đích khác.
- Chương này đã bổ sung một mục hoàn toàn mới về sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả. Theo đó, tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước phải đúng mục đích; có kế hoạch thay thế, loại bỏ dần phương tiện, thiết bị có công nghệ lạc hậu, tiêu thụ nhiều nước; áp dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến; tăng khả năng sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước; đồng thời bố trí cơ cấu cây trồng, mùa vụ phù hợp với điều kiện nguồn nước; xây dựng, duy tu, vận hành các công trình dẫn nước, giữ nước để tiết kiệm nước trong sản xuất nông nghiệp...
Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức xây dựng mô hình sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả và phổ biến, tuyên truyền các mô hình này. Các bộ, cơ quan ngang bộ xây dựng, ban hành theo thẩm quyền quy chuẩn kỹ thuật về sử dụng nước; xây dựng chương trình, kế hoạch, hướng dẫn nghiên cứu áp dụng công nghệ sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả; phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng và ban hành định mức tiêu thụ nước trong các hoạt động thuộc phạm vi quản lý;...
Ở địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm áp dụng đồng bộ các biện pháp quản lý, kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện quy định về sử dụng nước tiết kiệm và hiệu quả.
Nhà nước ưu đãi hoạt động sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả đối với tổ chức, cá nhân đầu tư sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước, thu gom, sử dụng nước mưa, sử dụng nước được khử muối từ nước lợ, nước mặn, đầu tư thiết bị, công nghệ và phát triển khoa học, công nghệ sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả.
- Luật quy định các trường hợp khai thác, sử dụng tài nguyên nước không phải đăng ký, không phải xin phép gồm: (i) khai thác, sử dụng nước cho sinh hoạt của hộ gia đình; (ii) khai thác, sử dụng nước với quy mô nhỏ cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; (iii) khai thác, sử dụng nước biển để sản xuất muối; (iv) khai thác, sử dụng nước phục vụ các hoạt động văn hóa, tôn giáo, nghiên cứu khoa học; (v) khai thác, sử dụng nước cho phòng cháy, chữa cháy, ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm, dịch bệnh và các trường hợp khẩn cấp khác theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp. Việc đăng ký, cấp giấy phép sẽ do Chính phủ quy định cụ thể
- Các quy định về khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, thủy điện, sản xuất muối và nuôi trồng thủy sản, sản xuất công nghiệp, khai thác, chế biến khoáng sản, giao thông thủy và cho các mục đích khác, thăm dò, khai thác nước dưới đất về cơ bản được kế thừa Luật tài nguyên nước năm 1998. Chỉnh sửa, bổ sung một số quy định về việc tổ chức, cá nhân quản lý, vận hành công trình khai thác, sử dụng nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp phải tuân theo quy trình vận hành; khai thác, sử dụng nguồn nước cho thủy điện phải có trách nhiệm hỗ trợ người dân nơi có hồ chứa. Hạn chế khai thác nước dưới đất tại các khu vực có nguồn nước mặt đáp ứng ổn định cho các nhu cầu sử dụng nước; khu vực có mực nước dưới đất bị suy giảm liên tục và có nguy cơ bị hạ thấp quá mức; khu vực có nguy cơ sụt, lún đất, xâm nhập mặn, gia tăng ô nhiễm do khai thác nước dưới đất; khu vực có nguồn nước dưới đất bị ô nhiễm hoặc có dấu hiệu ô nhiễm nhưng chưa có giải pháp xử lý; khu đô thị, khu dân cư tập trung ở nông thôn, khu, cụm công nghiệp tập trung, làng nghề đã có hệ thống cấp nước tập trung và dịch vụ cấp nước bảo đảm đáp ứng yêu cầu chất lượng, số lượng. Các hình thức hạn chế bao gồm: về đối tượng, mục đích khai thác; lưu lượng, thời gian khai thác; số lượng công trình, độ sâu, tầng chứa nước khai thác.
- Hồ chứa và khai thác, sử dụng nước hồ chứa là nội dung được “luật hóa” từ Nghị định 112/2008/NĐ-CP về quản lý, bảo vệ, khai thác tổng hợp tài nguyên và môi trường các hồ chứa thủy điện, thủy lợi. Điều mới của chương này quy định các yêu cầu cho việc xây dựng hồ chứa trên sông, suối và khai thác, sử dụng nước hồ chứa. Đối với các ngành, địa phương khi xây dựng quy hoạch phát triển mà có đề xuất xây dựng hồ chứa trên sông, suối thì phải nêu rõ sự cần thiết xây dựng hồ; xác định dòng chảy cần duy trì trên sông, suối; xác định các nhiệm vụ của hồ theo thứ tự ưu tiên; dung tích hồ chứa dành để thực hiện từng nhiệm vụ của hồ chứa. Việc quy hoạch phải được tổ chức lấy ý kiến của các đối tượng hưởng lợi và đối tượng có nguy cơ rủi ro từ việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước do việc xây dựng hồ chứa để xuất trong quy hoạch gây ra.
- Điều hòa, phân phối tài nguyên nước và chuyển nước lưu vực sông được bổ sung nhiều nội dung mới. Theo đó, việc điều hòa, phân phối phải góp phần bảo đảm an ninh lương thực, bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu trên sông, ngưỡng khai thác nước dưới đất; kết hợp khai thác, sử dụng nguồn nước mặt với khai thác, sử dụng nguồn nước dưới đất; tăng cường trữ nước trong mùa mưa để sử dụng cho mùa khô. Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức thực hiện việc điều hòa, phân phối trên lưu vực sông liên tỉnh. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thực hiện điều hòa, phân phối trong phạm vi địa phương.
Việc chuyển nước lưu vực sông phải căn cứ vào chiến lược và quy hoạch tài nguyên nước, chiến lược bảo vệ môi trường, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, ngành, khả năng thực tế của nguồn nước, nhu cầu sử dụng nước, ảnh hưởng của việc chuyển nước và các điều ước mà Việt Nam là thành viên. Các dự án chuyển nước phải có ý kiến thẩm định của Bộ Tài nguyên và Môi trường trước khi trình cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư.
- Bổ sung nhân tạo nước dưới đất là một điều mới quy định việc bổ sung nhân tạo phải dựa trên việc đánh giá cụ thể khả năng thích ứng về số lượng và chất lượng, khả năng giữ và trữ nước của các tầng chứa nước được bổ sung. Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan xác định các tầng chứa nước, khoanh định vùng cần bổ sung và phê duyệt phương án bổ sung nhân tạo.
3.5. Phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra (Chương V)
Chương này đã được bổ sung nhiều nội dung mới, trong đó tập trung quy định về phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra có liên quan trực tiếp tới các hoạt động của con người như: phòng, chống hạn hán, lũ, lụt, ngập úng nhân tạo từ việc vận hành hồ chứa; phòng, chống xâm nhập mặn; phòng, chống sụt, lún đất; phòng, chống sạt, lở bờ, bãi sông. Việc phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại của lũ, lụt, nước biển dâng, mưa đá, mưa axít và các tác hại thiên tai khác do nước gây ra sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật về đê điều, phòng, chống lụt, bão và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Để việc phòng, chống hạn hán, lũ, lụt, ngập úng nhân tạo có hiệu quả thì hồ chứa phải có quy trình vận hành được cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi tích nước. Hồ chứa lớn, quan trọng trên lưu vực sông phải vận hành theo quy trình vận hành liên hồ chứa đã được phê duyệt. Quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ chứa phải bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu, phòng, chống lũ, lụt, hạn hán, thiếu nước cho hạ du và bố trí dung tích để thực hiện các nhiệm vụ của hồ chứa, bao gồm cả dung tích để phòng, chống lũ, an toàn cấp nước trong điều kiện thời tiết bình thường và bất thường.
Thủ tướng Chính phủ sẽ phê duyệt quy trình vận hành liên hồ chứa do Bộ Tài nguyên và Môi trường lập danh mục, xây dựng và trình.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công thương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tổ chức, cá nhân quản lý, vận hành hồ chứa sẽ xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền quy trình vận hành hồ chứa.
- Trong việc phòng, chống xâm nhập mặn thì việc quản lý, vận hành các cống ngăn mặn, giữ ngọt và các hồ chứa nước, công trình điều tiết dòng chảy phải tuân theo quy trình, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật. Thăm dò, khai thác nước dưới đất ở vùng đồng bằng, ven biển phải bảo đảm phòng, chống xâm nhập mặn cho nước dưới đất; khai thác nước lợ, nước mặn cho sản xuất không được gây xâm nhập mặn các nguồn nước và làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp. Luật cũng quy định tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước để sản xuất nông nghiệp phải có biện pháp phòng, chống chua, mặn, xói mòn đất và bảo đảm không gây ô nhiễm nguồn nước.
- Việc phòng, chống sụt, lún đất cũng rất được chú trọng trong Chương này nhằm hạn chế tình trạng sụt, lún đất đang xảy ra ở một số nơi trên cả nước. Theo đó, tổ chức, cá nhân hành nghề khoan nước dưới đất, khoan thăm dò địa chất, khoáng sản, dầu khí phải tuân thủ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về an toàn, phòng, chống sụt, lún đất, thực hiện các quy định trong giấy phép. Trường hợp xảy ra sụt, lún đất thì phải dừng việc thăm dò, khai thác, đồng thời thực hiện các biện pháp khắc phục và báo ngay cho chính quyền địa phương nơi gần nhất để kịp thời xử lý.
- Hoạt động cải tạo lòng, bờ, bãi sông, xây dựng công trình thủy, khai thác cát, sỏi và các khoáng sản khác trên sông, hồ không được gây sạt, lở, làm ảnh hưởng xấu đến sự ổn định lòng, bờ, bãi sông, hồ và phải được cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước có thẩm quyền chấp thuận bằng văn bản.
Những dòng sông, đoạn sông bị sạt, lở hoặc có nguy cơ bị sạt, lở, Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ xác định nguyên nhân gây sạt, lở, đề xuất các giải pháp khắc phục và báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, khoanh định khu vực cấm, tạm thời cấm khai thác khoáng sản. Đối với khu vực nằm giữa hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có liên quan kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt khu vực cấm, tạm thời cấm khai thác khoáng sản.
Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ chủ trì phối hợp với bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể việc bảo vệ lòng, bờ, bãi sông.
3.6. Tài chính về tài nguyên nước (Chương VI)
Đây là một chương mới hoàn toàn so với Luật tài nguyên nước năm 1998 khi lần đầu tiên trong Luật này tài nguyên nước được coi là tài sản bằng việc quy định nguồn thu từ tài nguyên nước và quy định tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.
- Điều 64 của Luật quy định nguồn thu ngân sách nhà nước từ hoạt động tài nguyên nước bao gồm: (i) thuế tài nguyên nước và các khoản thuế khác theo quy định của pháp luật về thuế; (ii) các loại phí, lệ phí theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí; (iii) tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước; (iv) tiền bồi thường thiệt hại cho Nhà nước, tiền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước theo quy định của pháp luật.
- Tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước được quy định trong Luật này với ý nghĩa tài nguyên nước là tài sản thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước đại diện chủ sở hữu, tương tự như đối với đất đai và khoáng sản. Nhà nước có quyền hưởng lợi khi cấp quyền khai thác cho các tổ chức, cá nhân. Tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước khác với thuế tài nguyên, phí và lệ cấp giấy phép. Đó là khoản thu của chủ sở hữu khi cho các chủ thể khác sử dụng tài sản của mình tương tự như khoáng sản, đất đai. Hơn nữa, việc thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước góp phần nâng cao ý thức và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong  khai thác, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả và bảo đảm công bằng trong việc sử dụng tài sản của Nhà nước. 
Điều 65 của Luật quy định việc thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước trong các trường hợp:
+ Khai thác nước để phát điện có mục đích thương mại;
+ Khai thác nước để phục vụ hoạt động kinh doanh, dịch vụ, sản xuất phi nông nghiệp;
+ Khai thác nước dưới đất để trồng cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thủy sản tập trung với quy mô lớn.
Chính phủ sẽ quy định cụ thể về tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.
3.7. Quan hệ quốc tế về tài nguyên nước (Chương VII)
Nội dung tại Chương này về cơ bản được kế thừa các quy định của Luật tài nguyên nước năm 1998, theo đó việc điều tra cơ bản, bảo vệ, khai thác, sử dụng nguồn nước liên quốc gia, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra, hợp tác quốc tế và giải quyết tranh chấp về nguồn nước liên quốc gia sẽ được Nhà nước Việt Nam áp dụng dựa trên những nguyên tắc:
- Tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của các nước có chung nguồn nước;
- Bảo đảm công bằng, hợp lý và phát triển bền vững trong khai thác, sử dụng nguồn nước liên quốc gia;
- Không làm phương hại tới quyền và lợi ích của các nước có chung nguồn nước phù hợp với điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
- Tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế và các điều ước quốc tế liên quan.
Chương này được bổ sung về trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân các cấp tại vùng biên giới có nguồn nước liên quốc gia chảy qua trong việc theo dõi, giám sát, tổng hợp tình hình về các nguồn nước liên quốc gia, kịp thời báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc cấp trên trực tiếp xử lý các vấn đề nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của Việt Nam. Nhà nước Việt Nam chủ động tham gia các tổ chức quốc tế về tài nguyên nước nhằm thúc đẩy hợp tác, khai thác, sử dụng và phát triển bền vững nguồn nước liên quốc gia.
3.8. Trách nhiệm quản lý tài nguyên nước (Chương VIII)
Luật bổ sung quy định cụ thể trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ, ngành và của chính quyền địa phương các cấp, thẩm quyền cấp phép về tài nguyên nước; bổ sung quy định về việc điều phối, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước và phòng, chống tác hại do nước gây ra trên lưu vực sông nhằm bảo đảm tính hệ thống, thống nhất của tài nguyên nước trên lưu vực sông và đề cao trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương liên quan trong việc giải quyết những vấn đề về tài nguyên nước trong khuôn khổ lưu vực sông.
- Trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân các cấp trong quản lý nhà nước về tài nguyên nước được quy định rõ ràng. Theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm:
+ Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước, quy chuẩn kỹ thuật, định mức, đơn giá về tài nguyên nước;
+ Lập, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hoặc phê duyệt theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước, quy hoạch tài nguyên nước; quy trình vận hành liên hồ chứa, danh mục lưu vực sông, danh mục nguồn nước; kế hoạch điều tra cơ bản, điều hòa, phân phối tài nguyên nước, phục hồi các nguồn nước bị ô nhiễm, cạn kiệt;
+ Khoanh định, công bố vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất, vùng cần bổ sung nhân tạo nước dưới đất; công bố dòng chảy tối thiểu, ngưỡng khai thác nước dưới đất; tổ chức thẩm định các dự án chuyển nước lưu vực sông, cho ý kiến về quy hoạch chuyên ngành có khai thác, sử dụng tài nguyên nước;
+ Cấp, gia hạn, điều chỉnh, đình chỉ, thu hồi giấy phép về tài nguyên nước và cho phép chuyển nhượng quyền khai thác tài nguyên nước theo thẩm quyền;
+ Tổ chức thực hiện điều tra cơ bản, giám sát tài nguyên nước; tổng hợp kết quả điều tra cơ bản, tình hình khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; tổ chức quan trắc cảnh báo, dự báo về mưa, lũ, lụt, hạn hán, thiếu nước, ô nhiễm, xâm nhập mặn;
+ Xây dựng cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin tài nguyên nước; quản lý, lưu trữ thông tin, dữ liệu; công bố, xuất bản tài liệu, thông tin về tài nguyên nước;
+ Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phương án giải quyết những vấn đề liên quan đến nguồn nước liên quốc gia, việc tham gia tổ chức quốc tế và các hoạt động hợp tác quốc tế về tài nguyên nước;
+ Thường trực Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước, Ủy ban sông Mê Công Việt Nam và các tổ chức lưu vực sông;
+ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tài nguyên nước; đào tạo nguồn nhân lực, thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm về tài nguyên nước.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước trên địa bàn.
- Quy định về điều phối lưu vực sông được bổ sung nhằm tăng cường trách nhiệm phối hợp để điều phối, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước và phòng, chống tác hại do nước gây ra. Các hoạt động cần điều phối, giám sát bao gồm:
+ Phối hợp các biện pháp bảo vệ tài nguyên nước, ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước, phục hồi nguồn nước bị ô nhiễm, cạn kiệt;
+ Điều hoà, phân phối tài nguyên nước, duy trì dòng chảy tối thiểu trên sông và ngưỡng khai thác nước dưới đất; điều hòa, phân phối nguồn nước trong trường hợp hạn hán, thiếu nước trên lưu vực sông;
+ Xây dựng, vận hành hồ chứa, đập dâng và các công trình điều tiết nước trên sông; dự án chuyển nước và các công trình khai thác, sử dụng nước quy mô lớn, quan trọng trên lưu vực sông;
+ Xả nước thải có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái nghiêm trọng nguồn nước lưu vực sông; khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước và phục hồi các nguồn nước bị ô nhiễm trên lưu vực sông;
+ Các hoạt động sử dụng đất, khai thác khoáng sản, bảo vệ và phát triển rừng trên lưu vực sông.
- Các quy định về thẩm quyền cấp, gia hạn, điều chỉnh, đình chỉ, thu hồi giấy phép về tài nguyên nước; Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước về cơ bản kế thừa Luật tài nguyên nước năm 1998, có chỉnh sửa về thẩm quyền cấp phép cho rõ ràng hơn, theo đó Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc cấp, gia hạn, điều chỉnh, đình chỉ, thu hồi giấy phép về tài nguyên nước. Lược bỏ quy định về thành phần Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước; nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng sẽ do Thủ tướng Chính phủ quy định.  
3.9. Thanh tra chuyên ngành tài nguyên nước, giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước (Chương IX)
Luật bổ sung quy định thanh tra chuyên ngành tài nguyên nước trực thuộc cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước và hoạt động theo quy định của Luật tài nguyên nước và pháp luật về thanh tra; bổ sung để cụ thể hơn về giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước.
- Thanh tra chuyên ngành tài nguyên nước là Điều mới quy định Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường và cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên nước thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành tài nguyên nước.          
- Chương này đã dành một điều quy định về giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước, trong đó Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức hoà giải các tranh chấp về tài nguyên nước trên địa bàn khi có đề nghị của các bên tranh chấp. Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết tranh chấp về khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước thuộc trường hợp không phải xin cấp giấy phép; trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết tranh chấp thì các bên tranh chấp có quyền khiếu nại đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Toà án.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết tranh chấp trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước đối với các trường hợp thuộc thẩm quyền cấp giấy phép của mình; trường hợp không đồng ý thì các bên tranh chấp có quyền khởi kiện tại Toà án theo quy định; giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước giữa Ủy ban nhân dân cấp huyện với nhau và giải quyết tranh chấp khi đã có quyết định giải quyết của Ủy ban nhân dân cấp huyện nhưng các bên không đồng ý.
Bộ Tài nguyên và Môi trường giải quyết tranh chấp trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước đối với các trường hợp thuộc thẩm quyền cấp giấy phép của mình; trường hợp không đồng ý thì các bên có quyền khởi kiện tại Toà án theo quy định của pháp luật và giải quyết tranh chấp khác về tài nguyên nước giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
 Đối với yêu cầu về bồi thường thiệt hại liên quan đến giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự và pháp luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước.
3.10. Điều khoản thi hành (Chương X)
Điểm mới của Chương này quy định tổ chức, cá nhân đang thực hiện khai thác tài nguyên nước phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước theo quy định của Luật này đối với phần còn lại của thời hạn ghi trong giấy phép. Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2013, các tổ chức, cá nhân có giấy phép về tài nguyên nước phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.
Luật đã bỏ quy định về áp dụng Luật tài nguyên nước đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài.
 
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT TÀI NGUYÊN NƯỚC
1. Ban hành văn bản hướng dẫn thi hành: Để triển khai thi hành Luật Tài nguyên nước, các văn bản sau sẽ được ban hành:
1. Nghị định hướng dẫn thi hành Luật tài nguyên nước;
2. Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước;
3. Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định hướng dẫn thi hành một số điều của Luật tài nguyên nước;
4. Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định quy định về lý phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước;
5. Các văn bản quy phạm pháp luật khác về tài nguyên nước.
2. Tổ chức phổ biến, giáo dục Luật tài nguyên nước và các văn bản hướng dẫn thi hành
- Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật tài nguyên nước trên các phương tiện thông tin đại chúng; biên soạn, in ấn, cấp phát tài liệu cho địa phương, tổ chức tập huấn chuyên sâu về Luật tài nguyên nước cho lãnh đạo các cấp; lãnh đạo và chuyên viên các Sở Tài nguyên và Môi trường 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; một số doanh nghiệp, tổ chức có hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước...
- Các bộ, ngành có liên quan, ủy ban nhân dân các cấp thực hiện hoặc phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật tài nguyên nước, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác quản lý trong phạm vi bộ, ngành, địa phương mình.
3. Tổ chức rà soát văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước, thống kê những văn bản cần sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức rà soát văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước, thống kê những văn bản cần sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ để phù hợp với Luật tài nguyên nước.
- Các bộ, ngành có liên quan, ủy ban nhân dân các cấp tổ chức rà soát văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước, thống kê những văn bản cần sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ thuộc thẩm quyền của mình để phù hợp với Luật tài nguyên nước.
Nguồn: Trang thông tin về phổ biến giáo dục pháp luật của Bộ Tư pháp
Trang chủ     |     Tin tức     |     Liên hệ     |     Mobile     |     Site map

Copyright © 2013 Bản quyền thuộc về UBND TP Pleiku
Chịu trách nhiệm chính: ...  
Địa chỉ: Xã Chư Á,  TP. Pleiku, Gia Lai - Điện thoại:0593 830 155  - Fax: 059. 3828 414 - Email: chua.pleiku@gialai.gov.vn
Giấy phép số: 01/GP-TTĐT ngày 24/02/2015 của Sở Thông tin và Truyền thông Gia Lai.
Phát triển bởi Trung tâm Công nghệ thông tin và Truyền thông Gia Lai